Tác Động Dương tập 3: Chủ nghĩa tiêu dùng xanh - khi bạn từ chối cốc cà phê chỉ vì ống hút nhựa
Đã đến lúc con người phải sống xanh
Dạo gần đây, nếu chịu khó theo dõi báo đài thì chắc bạn không lạ gì với những dòng tin tức kiểu như: “Ngành dệt may tiếp tục đối mặt tình trạng thiếu đơn hàng”, “Dệt may vẫn chật vật với đơn hàng”, “Lao động dệt may ảnh hưởng nặng nề nhất trong làn sóng cắt giảm” … Chiều hướng tiêu cực của ngành ảnh hưởng trực tiếp tới gần 2 triệu lao động, tương đương 25% toàn ngành chế biến, chế tạo theo số liệu của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động (FALMI).
Bên cạnh khó khăn chung của kinh tế thế giới, các chuyên gia và các nhà quản lý đều có nhận định chung là các doanh nghiệp Việt Nam đang đánh mất các đơn hàng vào tay đối thủ trên các thị trường truyền thống của chính mình. Theo VIRAC, xuất khẩu dệt may của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 đạt khoảng 18,6 tỷ USD, giảm 18% so với cùng kỳ năm 2022.
Lý do xuất phát từ các quy định mới về tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, tiêu dùng xanh. Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), “trong cam kết của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA đã đưa ra quan điểm về việc sử dụng các nguyên liệu xanh cũng như việc tái chế các sản phẩm. Điều này bắt buộc doanh nghiệp phải "xanh hóa" dệt may, từ đó mới có cơ hội tiếp cận đơn hàng lớn từ các thị trường như: EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... Đây cũng là những yêu cầu đòi hỏi nhà sản xuất Việt Nam phải thích ứng. Nếu không thay đổi, dệt may Việt Nam có thể dần đánh mất lợi thế cạnh tranh".
Đơn cử như thị trường EU, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm dệt may nhập khẩu trải rộng cả về mặt kỹ thuật, pháp lý, tác động môi trường, trách nhiệm doanh nghiệp … cụ thể là: An toàn sản phẩm, REACH và sử dụng hóa chất, Danh sách các chất bị hạn chế (RSL), Yêu cầu đặc biệt đối với quần áo trẻ em, Dấu CE, Chất diệt khuẩn, Ghi nhãn sản phẩm, Quyền sở hữu trí tuệ, Công ước CITES, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) …
Các quy định và yêu cầu này đòi hỏi các doanh nghiệp may mặc Việt Nam phải hành động ngay và dứt khoát hơn nữa. Tín hiệu tích cực là doanh nghiệp Việt đã sớm nhận ra áp lực phải thay đổi và thích ứng nhanh với khoảng 50% doanh nghiệp dệt may đã thực hiện xanh hóa sản xuất. Sự đổi mới này phát triển mạnh mẽ ở các mảng về: Tái chế (nhu cầu vải tái chế dự báo là 4000 tấn/năm tại riêng thị trường EU), Năng lượng tái tạo (sử dụng năng lượng từ điện gió, điện mặt trời… thay thế điện từ nhiên liệu hóa thạch), Xử lý nước thải (sử dụng hóa chất thân thiện môi trường, đầu tư hệ thống xử lý nước thải…), Nguyên liệu xanh (nguyên liệu từ thiên nhiên như hoa sen, cà phê, bạc hà và tre…)
Có thể nói câu chuyên về tiêu dùng xanh không còn chỉ là lời hô hào, những mẩu tin vắn trên báo đời mà thực sự đang ảnh hưởng tới từng doanh nghiệp, từng gia đình, từng cá nhân ngay trên đất nước chúng ta.
Tiêu dùng xanh hay là chủ nghĩa tiêu dùng xanh là gì?
Chủ nghĩa tiêu dùng xanh - tên tiếng Anh là Green Consumerism bắt nguồn từ các quốc gia phương Tây vào năm 1973. Và cũng giống như hầu hết các chủ nghĩa khác, chủ nghĩa này bắt nguồn từ một cuộc khủng hoảng.
Vào năm 1973, các nước thuộc Tổ chức các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ (OPEC ngày nay) tuyên bố ban hành lệnh cấm vận, và ngừng xuất dầu mỏ sang các nước ủng hộ Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur, cụ thể ở đây là nước Mỹ và các nước Phương Tây. Ngay lập tức, giá dầu toàn cầu tăng vọt từ $3/thùng tăng gấp 4 lần lên gần $12/thùng. Cú shock giá cả này, kèm theo khủng hoảng tài chính đến từ lạm phát cao và sự suy sụp của thị trường ngoại tệ khiến cho người tiêu dùng nhận ra cần sử dụng năng lượng xanh như một lựa chọn thay thế cho nhiên liệu hóa thạch.
Năm 1992, tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil), một trong những nguyên tắc quan trọng nhất được nêu ra là: “Để đạt được sự phát triển bền vững và chất lượng cuộc sống cao hơn cho mọi người, các quốc gia nên giảm dần và loại trừ những phương thức sản xuất và tiêu dùng không bền vững”. Đây là một trong những tuyên ngôn mang tính toàn cầu đầu tiên về việc thúc đổi tiêu dùng bền vững.
Tháng 6/2012, tại Brazil, Hội nghị Trái đất Rio 20+ diễn ra với Sáng kiến mua sắm xanh trong khu vực công đã được nhiều Chính phủ và tổ chức trên thế giới tự nguyện ký kết thực hiện. Sáng kiến này được Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) nêu ra, yêu cầu Chính phủ các nước tham gia ủng hộ đưa các nguyên tắc mua sắm xanh vào các hoạt động chi tiêu của Chính phủ. Qua đó, thay đổi phương thức tiêu dùng theo hướng xanh là chủ đề được quan tâm rộng rãi, bởi nó liên quan tới nhiều chủ thể (cá nhân, hộ gia đình, nhóm, doanh nghiệp, và nhà nước), nhiều cấp độ (địa phương, quốc gia, vùng lãnh thổ và quốc tế), nhiều khía cạnh (kinh tế, xã hội và môi trường).
Tiêu biểu lại Vương Quốc Anh, Đạo luật Về Dịch Vụ Công Cộng (Giá Trị Xã Hội) đã có hiệu lực từ ngày 31 tháng 1 năm 2013. Đạo luật này yêu cầu những người đang thực hiện việc đấu thầu các dịch vụ công cộng phải suy nghĩ về cách họ có thể đảm bảo để có được các lợi ích xã hội, kinh tế và môi trường rộng lớn khác.
Ở Việt Nam, dù chưa có những quy định riêng biệt về tiêu dùng xanh, để tạo đà cho quá trình xanh hóa nền kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393 “Phê duyệt Chiến lược Tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn 2050”, trong đó có hai nhiệm vụ liên quan đến tiêu dùng xanh là xanh hóa sản xuất và xanh hóa tiêu dùng.
Các nghiên cứu về động lực phát triển chủ nghĩa tiêu dùng xanh
Ngoài các yếu tố về pháp luật và quy tắc quản lý nhà nước như đã nói ở trên, các nhà khoa học xã hội muốn đi sâu tìm hiểu về các tác nhân thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa, cũng như tác động tới hành vi tiêu dùng.
Các quan sát đầu tiên về hành vi tiêu dùng xanh vào năm 1991 cho thấy 70% người Mỹ nói rằng họ ủng hộ việc bảo vệ môi trường, và 49% nói rằng họ sẽ tránh mua các sản phẩm có thể gây hại cho môi trường. Hay hiểu đơn gian là bạn từ chối cốc cà phê chỉ vì ống hút nhựa.
Và sau gần 30 năm, có vẻ như các nhà sản xuất chưa làm đủ những gì họ cần làm. Trong khảo sát gần nhất tháng 3 năm 2023, gần 2/3 người Mỹ được khảo sát cho rằng các công ty, tập đoàn lớn đang làm quá ít để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu (trong khi chỉ 21% nói là làm đủ, và 10% nói là đã làm quá nhiều).
Nghiên cứu của Kamyar và cộng sự cho rằng các yếu tố chính để thúc đẩy người tiêu dùng mua sản phẩm xanh đó là: mối quan tâm về môi trường, hiệu quả mà người tiêu dùng cảm nhận được, kiến thức của người tiêu dùng; luật pháp và quy định nhà nước; các công cụ quảng bá… Kết quả này có thể giúp các công ty, cơ quan chính phủ, chính quyền, nhà sản xuất và người bán hàng hiểu được những gì thúc đẩy khách hàng mua sản phẩm xanh và thuyết phục họ mua chúng.
Dựa trên nguyên tắc của Lý thuyết Hành vi Kế hoạch (Theory of Planned Behavior) và Lý thuyết Trao đổi Xã hội (Social Exchange Theory), nghiên cứu của Siddhi Pittayachawan và cộng sự đã phát triển mô hình về tiêu dùng xanh bao gồm sáu yếu tố: thái độ về tiêu dùng xanh, tiêu chuẩn cá nhân, kiểm soát hành vi, sự khuyến khích, mục tiêu sống xanh, và hợp tác xanh. Các khảo sát và tính toán dựa theo dữ liệu từ người tiêu dùng tại Singapore và Australia. Kết quả cho thấy, tại cả hai nơi, mục tiêu sống xanh tác động tích cực tới hành vi mua sắm xanh. Ngoài ra, có sự tương quan tích cực giữa việc mua sắm xanh và mức độ tham gia cao hơn vào các hoạt động xanh.
Một cách tổng quan, Chủ nghĩa tiêu dùng xanh được thúc đẩy bởi ba yếu tố chính là: tác động cưỡng bức (luật pháp, quy định), tác động nội sinh (giáo dục, văn hóa, ý thức…) và tác động ngoại sinh (lợi ích khuyến khích, hoạt động xã hội…).
Tôi, ta và chủ nghĩa tiêu dùng xanh
Cuối năm 2020, cá nhân người viết có dịp tình cờ được tham gia vào nhóm công tác của một công ty cổ phần có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, chuyên gia công hàng dệt may xuất khẩu tới thị trường châu Âu.
Ngay sau khi EVFTA được ký kết vào năm 2019, đối tác phía châu Âu của công ty đã yêu cầu công ty phải chuẩn bị lộ trình để chuyển đổi theo các yêu cầu mới về nguồn gốc xuất xứ, tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật… Thế nhưng loay hoay gần một năm trời, ban lãnh đạo vẫn không tìm ra phương án để triển khai. Đối tác thì thúc giục, nhưng lúc đó Việt Nam không ai làm, và cũng chưa biết làm thế nào. Hơn nữa, bối cảnh lúc đó là khi dịch Covid đã lây lan toàn cầu, kinh tế vĩ mô biến động khôn lường, chính sách Zero-Covid ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực sản xuất. Tưởng chừng là tất cả đã chấm hết. Nhưng may mắn là khách hàng lâu năm phía châu Âu đã không bỏ rơi công ty mà giới thiệu cho một công ty khác trong chuỗi cung ứng ở Bangladesh tên là Mithela (công ty nằm trong top 20 nhà máy xanh của Bangladesh).

Nghe tới Bangladesh, tôi vẫn nhớ ấn tượng đầu tiên của nhóm công tác Việt Nam là nghĩ ngay về một đất nước nghèo, đông dân, kiểu như Ấn Độ nhưng “lạc hậu” hơn. Và cũng vì “kiểu như Ấn Độ” nên tôi được giới thiệu làm phiên dịch viên vì lý lịch 2 dòng: từng đi Ấn, biết tiếng Anh.
Nhưng rồi sau 2 ngày ngắn ngủi, khái niệm “lạc hậu” đã biến mất. Thay vào đó là sự choáng ngợp về tầm nhìn của lãnh đạo và chủ doanh nghiệp nước này về vấn đề chuyển đổi xanh, sản xuất xanh. Họp online với đường truyền chập chờn, chữ được chữ mất, với giọng Bengali đặc sệt (những tháng ngày lang thang ở Mumbai không giúp gì nhiều lắm và nói thật bạn nói nhưng hầu như tôi không hiểu gì mấy). Thế nhưng, các slide thuyết trình ngập tràn những hình ảnh xanh da trời của các tấm pin mặt trời trên mái của các phân xưởng, xanh rì rào của bạt ngàn cây cối, những mô hình cung ứng nguyên liệu từ các sản phẩm tái chế, sản phẩm vải của địa phương…
Câu chuyện sản xuất xanh không đơn giản chỉ là nguyên liệu, máy móc mà còn là câu chuyện xoay quanh con người. Khác với Ấn Độ, phụ nữ ở Bangladesh được trao quyền nhiều hơn bởi đơn giản họ là lao động chính tại các nhà máy dệt may. Quyền của phụ nữ và giáo dục, đào tạo cho họ được các chủ doanh nghiệp rất coi trọng. Hơn thế nữa, với tầm nhìn vĩ mô, bằng cách quy hoạch khu công nghiệp khép kín, họ hạn chế tới mức tối đa việc vận chuyển vì đơn giản là muốn giảm thiểu phát thải (và chắc là đỡ tốn xăng nữa). Phải nói rằng, Bangladesh vẫn là quốc gia đang phát triển, và cảm giác giống như Việt Nam đầu những năm 2000. Dệt may là ngành chủ lực của quốc gia này khi chiếm tới gần 90% kim ngạch xuất khẩu. Thế nhưng việc đi tắt đón đầu, tập trung vào kinh tế xanh, tôi tin là quốc gia này sẽ sớm bứt phá trong thời kỳ mà xanh hóa trong sản xuất là xu thế tất yếu.
Trở lại với công ty dệt may Việt Nam, quả ngọt đã tới với ban giám đốc khi liên tục nhận đơn hàng mới dù thị trường đang lao đao. Đơn giản là trong khi các doanh nghiệp khác đang loay hoay để áp ứng các tiêu chuẩn, tiêu chí mới, doanh nghiệp đó đã nghiễm nhiên trở thành một đối tác hàng đầu của các khách hàng châu Âu. Ngoài ra, sản phẩm của doanh nghiệp còn nhận ưu đãi cực lớn từ EVFTA với mức thuế ưu đãi 0%.
Cá nhân tôi tin là với tầm nhìn và sứ mệnh gắn bó mật thiết với con người, môi trường và lợi ích xã hội, doanh nghiệp đó sẽ thành công hơn nữa - và Việt Nam cần nhiều hơn những doanh nghiệp như vậy.
Vậy làm thế nào để có thêm các doanh nghiệp/tổ chức phát triển xanh và bền vững?
Hãy đăng ký và đón đọc Tác Động Dương tập 4: “Doanh nghiệp xanh, tổ chức xanh - bạn cần tôi và tôi cần bạn ?”